Làm thế nào để tạo ra giá trị mới trong sản xuất máy ép phun? Luồng kiến thức và dữ liệu là chìa khóa!
Trong những năm gần đây, các cường quốc sản xuất trên thế giới đã thúc đẩy ngành sản xuất trở nên thông minh và tự động hóa. Theo thông tin do Cục Thống kê Quốc gia công bố vào tháng 6, đầu tư sản xuất của Đài Loan từ tháng 1 đến tháng 5 tăng 20,4% so với cùng kỳ năm ngoái, với tốc độ tăng trưởng trung bình trong hai năm chuyển từ mức giảm từ tháng 1 đến tháng 4 sang mức tăng 0,6%. . Vào ngày 29 tháng 6, Chi Lee, chủ tịch China Machine Press, cho biết: “Thế hệ công nghệ thông tin mới sẽ thay đổi không chỉ bản thân công nghệ công nghiệp mà còn cả cách tổ chức sản xuất và mô hình phát triển công nghiệp toàn cầu”.
Trong thời đại số, làm sao để tạo đột phá trong ngành sản xuất? Sự tích hợp sâu rộng của công nghệ số được thể hiện bằng số hóa công nghiệp và nền kinh tế thực có thể là động lực và lựa chọn chiến lược then chốt nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền tảng công nghiệp, hiện đại hóa chuỗi công nghiệp và xây dựng mô hình phát triển mới.
Dòng chảy ngầm: cuộc cách mạng kỹ thuật số “20 năm trước, thế giới kỹ thuật số hoàn toàn khác biệt với thế giới thực; nhưng giờ đây, dưới một vòng cách mạng công nghệ mới và sự thay đổi công nghiệp ngày càng nhanh, sản xuất tiên tiến, năng lượng mới và các lĩnh vực khác đều thể hiện sự đột phá, dẫn đầu bởi thế hệ công nghệ thông tin mới như dữ liệu lớn và điện toán đám mây. Sự tích hợp của công nghệ và công nghiệp theo hướng “thông minh, phổ biến, kết nối, xanh và lành mạnh” đã tạo ra một số lượng lớn các sản phẩm, dịch vụ, phương thức và mô hình kinh doanh mới được kết nối thông minh với nhau”, một nhà nghiên cứu tại Machinery Industry Think Xe tăng, Zhao Juan, cho biết. Thời đại số đã đến, kinh tế số trở thành điểm tăng trưởng mới cho phát triển kinh tế ở tất cả các nước. Theo Học viện Công nghệ Thông tin và Truyền thông Trung Quốc, nền kinh tế kỹ thuật số toàn cầu chiếm 41,5% GDP năm 2019, trong đó các nước phát triển như Đức, Anh và Mỹ chiếm hơn 60%. Đối với Trung Quốc, nền kinh tế kỹ thuật số toàn cầu chiếm 36,2% GDP năm 2019, tăng lên 38,6% vào năm 2020, đóng góp hơn 60% tăng trưởng kinh tế. Ở phía bên kia của dòng chảy kỹ thuật số toàn cầu, dòng hàng hóa, dịch vụ và tài chính truyền thống đã bắt đầu chậm lại: từ năm 1985-2007, thương mại hàng hóa toàn cầu tăng trưởng nhanh gấp đôi tốc độ tăng trưởng GDP toàn cầu, trong khi năm 2016, tốc độ tăng trưởng của thương mại toàn cầu chỉ ở mức 1,7% và kể từ năm 2019, thương mại hàng hóa toàn cầu đã cho thấy mức tăng trưởng âm.
Tuy nhiên, dưới sự phát triển của nền kinh tế số, ngành sản xuất là động lực xây dựng mô hình phát triển mới. “Chiến lược Trung Quốc kỹ thuật số đã đưa tốc độ phát triển kỹ thuật số lên một mức độ chưa từng có”. Theo quan điểm của Zhao Juan, sản xuất, với tư cách là lĩnh vực quốc tế hóa và cạnh tranh nhất trong ba ngành công nghiệp của Đài Loan, là lĩnh vực then chốt để Đài Loan hội nhập sâu rộng vào phân công lao động công nghiệp toàn cầu và định hình lại hợp tác quốc tế cũng như các lợi thế cạnh tranh mới. Đây chắc chắn là chiến trường chính và là động lực để Đài Loan xây dựng mô hình phát triển mới. Nút thắt lớn: Thiếu thử nghiệm thí điểm Hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất của Trung Quốc đã sở hữu những lợi thế đặc biệt về quy mô và hệ thống, biến Trung Quốc từ một nước nông nghiệp lớn thành một gã khổng lồ sản xuất. Năm 2020, GDP của Trung Quốc đạt 101,6 nghìn tỷ RMB, lần đầu tiên vượt mốc 100 nghìn tỷ RMB. Trong khi đó, giá trị gia tăng của ngành sản xuất đã đứng đầu thế giới trong 11 năm liên tiếp. Cụ thể, về lĩnh vực sản xuất thiết bị, Đài Loan đã có bước nhảy vọt từ phụ thuộc hoàn toàn vào nhập khẩu sang độc lập cơ bản. Tuy nhiên, không thể bỏ qua những thiếu sót. Theo Jiannan Si, nhà nghiên cứu tại Machinery Industry Think Tank, tỷ lệ tự cung tự cấp của Đài Loan trong một số lĩnh vực có độ chính xác cao như thép chịu lực cao cấp gần như bằng 0 nên thường xuyên bị “kẹt” ở các lĩnh vực trọng điểm. Nguyên nhân sâu xa của tình trạng này là nền tảng công nghiệp yếu kém, điểm nghẽn lớn hạn chế sự phát triển chất lượng cao của ngành sản xuất thiết bị của Đài Loan. Jiannan Si đã phân tích từ góc độ khả năng đổi mới và tin rằng sự thiếu hụt năng lực công nghệ cơ bản, sự yếu kém của nền tảng công nghệ chung, sự thiếu hụt nền tảng thử nghiệm và xác minh hoặc nền tảng “thử nghiệm quy mô thí điểm”, hạn chế nghiêm trọng việc đổi mới và công nghiệp hóa khoa học và thành tựu công nghệ trong chế tạo thiết bị.
Jiannan Si cho biết, “Trong chuỗi đổi mới công nghệ, tỷ lệ đầu tư cho R&D cho thử nghiệm thí điểm là khoảng 1:6 đến 1:8, sử dụng lượng vốn rất lớn. Khoản đầu tư và rủi ro rất lớn đến mức doanh nghiệp không sẵn lòng hoặc không thể gánh chịu, và do đó, thử nghiệm thí điểm được coi là 'thung lũng tử thần' không thể vượt qua đối với quá trình công nghiệp hóa các thành tựu khoa học và công nghệ.” Việc thiếu liên kết trưởng thành “thử nghiệm quy mô thí điểm” không chỉ là điểm nghẽn lớn hạn chế khả năng ứng dụng thị trường của ngành sản xuất thiết bị của Đài Loan mà còn là mấu chốt của chất lượng sản phẩm kém, độ ổn định và độ tin cậy. Lấy ngành máy móc kỹ thuật làm ví dụ, do thiếu thử nghiệm và xác minh nên độ chính xác điều khiển của bộ giới hạn mô-men xoắn, bộ phận điều khiển điện tử cốt lõi cần thiết cho cần cẩu bánh xích trong nước, khó đạt 5% trong điều kiện siêu nâng. Tuy nhiên, vẫn cần rất nhiều thử nghiệm và kinh nghiệm để điều chỉnh mô hình tính toán. Hướng tới hội nhập: định hướng tái cơ cấu công nghiệp Trong thời đại số, tương lai của sản xuất thông minh nằm ở đâu? Theo quan điểm của Chen Chen, nhà nghiên cứu tại Machinery Industry Think Tank, sản xuất thông minh không chỉ là sản xuất mà còn là sự đổi mới và tương lai của tái cơ cấu công nghiệp nằm ở sự hội nhập.
Đồng thời, số hóa đang thúc đẩy hơn nữa sự đổi mới. Quá trình sáng tạo tri thức được đẩy nhanh nhờ việc giải thích tri thức ẩn, tích hợp tri thức hiện và sự kết hợp của nhiều công nghệ tiên tiến khác nhau. Ví dụ, tỷ lệ nhận dạng toàn diện của robot phân loại rác tại Nhà máy Thành Đô đã tăng từ 60% lên 95%, đằng sau là công nghệ điện toán biên, công nghệ điện toán đám mây, công nghệ máy học, mà bản chất là kiến thức. “Trong kỷ nguyên sản xuất thông minh, cơ sở cạnh tranh trong ngành đã chuyển từ chức năng của một sản phẩm duy nhất sang hiệu suất của một hệ thống sản phẩm, trong đó các công ty riêng lẻ chỉ là một trong những người tham gia. Ngày nay, các nhà sản xuất có thể cung cấp nhiều loại thiết bị được kết nối và các dịch vụ liên quan để cải thiện hiệu suất tổng thể của hệ thống thiết bị”, Chen Chen cho biết.
Trong tình hình hiện nay, các cụm ngành có thể là một trong những lực lượng định hình lại hệ thống sản xuất ở Trung Quốc, mà bản chất của nó là một hệ thống mạng bao gồm các luồng thông tin và kiến thức. Lấy lĩnh vực máy ép phun ở Ninh Ba làm ví dụ, với hầu hết các công ty máy đúc hàng đầu trong nước, Ninh Ba được hưởng cổ tức từ các cụm công nghiệp và do đó đại diện cho cấp độ cao nhất ở Trung Quốc, dù về doanh thu và lợi nhuận hay sản xuất đổi mới.
Những lợi thế như vậy của các cụm công nghiệp trong nước đã thu hút sự quan tâm của Tập đoàn FCS, tập đoàn đã thành lập cơ sở sản xuất tại Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang ngay từ năm 2001. Năm 2020, một cơ sở sản xuất mới có diện tích 100 mu (hoặc 16,5 mẫu Anh) ở Vịnh Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, đã bắt đầu xây dựng.
Ảnh/ Jerry Wang, Phó Chủ tịch Tập đoàn FCS kiêm Chủ tịch FCS (Ningbo)
FCS sản xuất các sản phẩm chủ yếu được sử dụng trong các ứng dụng ép phun hai thành phần và đa thành phần và theo đuổi sự xuất sắc trong lĩnh vực này. Đồng thời, FCS nỗ lực rất nhiều vào việc phát triển nguồn nhân lực (dòng kiến thức), định vị sản phẩm và phân tích thị trường với dữ liệu lớn (dòng dữ liệu).
Năm 2019, Hệ thống Nhà máy Sản xuất Thông minh iMF 4.0 của Tập đoàn FCS đã ra mắt.
Hệ thống Nhà máy Sản xuất Thông minh IMF 4.0 khác với hệ thống giám sát từ xa thông thường ở chỗ nó không chỉ giám sát và ghi lại các thông số vận hành khuôn (thông số máy) của máy ép phun. Thay vào đó, nó mở rộng chế độ xem sang việc giám sát và ghi lại các thông số quá trình đúc (thông số vật liệu) để nâng cao hiệu quả của việc giám sát thông số đúc. Ngoài ra, số liệu thống kê, phân tích biến và trí tuệ nhân tạo (AI) được sử dụng rộng rãi để phân loại và phân tích số, cải thiện tính kịp thời của việc xây dựng và thực hiện các biện pháp đối phó để loại bỏ ngoại lệ, làm tăng đáng kể giá trị gia tăng của việc tái sử dụng dữ liệu, đơn giản hóa sản xuất quản lý và giảm chi phí lao động quản lý.
Không giống như Hệ thống thực thi sản xuất (MES) truyền thống, Hệ thống nhà máy sản xuất thông minh iMF 4.0, để lập kế hoạch tiêm tại hiện trường, tích hợp hiệu quả Công nghệ vận hành (OT), Công nghệ thông tin (IT) và Công nghệ truyền thông (CT), trích xuất các đặc điểm sản xuất tại hiện trường với OT và kết nối thông tin máy với IT và OT. Khung này ngắn gọn và thiết thực, dễ bảo trì và chi phí tương đối thấp, do đó phù hợp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng và quản lý, đồng thời phù hợp cho các doanh nghiệp lớn duy trì giao diện trao đổi dữ liệu để kết nối nhanh với MES đang chạy của họ. hệ thống.
Ảnh / FA-160 với Hệ thống Nhà máy Sản xuất Thông minh iMF4.0
Sản xuất thông minh không chỉ là sản xuất; đó là về sự đổi mới. FCS luôn đổi mới trong lĩnh vực máy ép phun, trao quyền cho ngành và đóng góp cho ngành sản xuất!
Đọc thêm: Nắm bắt cơ hội sản xuất “thông minh” cho khách hàng